Van-Hoa-Lich-Su
ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM
Đình làng là
một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát
triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đình làng là một
biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung
tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô đọng nhất là lễ hội....

Thời điểm
xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn có nhiều giả thuyết
khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỉ II,
thế kỉ III. Trong “Lục bộ tập kinh” của Khang Tăng Hội có đoạn: “Đêm đến ông
lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở một ngôi đình trống. Người giữ đình
hỏi: “Ông là người nào”. Ông trả lời: “Tôi là người xin nghỉ nhờ”... (Theo Hà
Văn Tấn - Đình Việt Nam). Chi tiết “ngôi đình trống” trong đoạn văn trên cho ta
cơ sở khẳng định đó là trạm nghỉ chân dọc đường, còn chi tiết “người giữ đình”
cho ta giả thiết đó là ngôi đình là nhà công cộng của làng xã. Tuy nhiên, giả
thiết này còn thiếu chắc
chắn.
Như vậy, đình
trạm là hiện tượng phổ biến ít nhiều từ thế kỉ thứ II. Thời nhà Đinh, ở cố đô
Hoa Lư đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trước khi vào trầu vua. Đến đời
Trần, đình với tư cách là trạm nghỉ chân được ghi trong Đại Việt sử kí toàn
thư: “Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta, phàm chỗ nào có đình trạm
đều phải tô tượng phật để thờ. Trước là tục nước ta, sau là vì nắng mưa nên làm
đình để cho người ta đi đường nghỉ chân, trát vách bằng vôi trắng gọi là đình
trạm” (Theo Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự - Đình Việt
Nam).
Dưới thời nhà
Lê, đình làng đã phát triển. Một sự kiện quan trọng dưới thời Lê Thánh Tông đã
được Hồng Đức thiên chính ghi chép lại về việc lập đình như sau: “Người giàu đã
bỏ tiền làm đình hay công đức làm chùa. Thế mà (người sau giữ việc hậu) không
biết đền đáp ơn đức, chỉ lừa người lấy của, chẳng bao lâu, tình nhạt lễ bạc,
quên cả lời đoan, sinh thói bạc ác hoặc bỏ cả giỗ chạp, không như đời trước,
hoặc là làm cỗ bàn không như khoán ước, hoặc năm thì trước năm thì sau, không
đúng tháng hoặc trẻ thì lạy lớn thì không, chẳng đồng lòng. Vậy con cháu đặt hậu
ở đình hay ở chùa mà thấy kẻ giữ ở hậu có trái lễ thì trình báo với nha môn để
thu lại tiền công đức” (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt
Nam).
Đình có bia
xưa nhất là đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xưa thuộc làng Thanh Hà cổ, nay thuộc
phố ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận Thiên thứ 3 (1433). Các cứ liệu
trên cho phép ta khẳng định đình làng đã có từ thời Lê Sơ, đầu thế kỉ XV. Những
ngôi đình xưa nhất còn bảo tồn đến ngày nay đều có niên đại vào thời nhà Mạc,
thế kỉ XVI, đó
là:
- Đình Thụy
Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) dựng năm Đại Chính thứ 2
(1531).
- Đình Lỗ
Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang) được ghi vào niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577),
nhiều người dự đoán vào năm
1576.
- Đình Phù
Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh), được dựng vào cuối thế kỉ
XVI.
- Đình Là
(Thường Tín, Hà Nội) dựng năm Diên Thành thứ 4
(1581).
- Đình Tây
Đằng (Ba Vì, Hà Nội) dựa vào phong cách kiến trúc và điêu khắc, người ta dự đoán
được dựng vào thế kỉ
XVI.
Căn cứ vào
tài liệu, bi kí, chúng ta có thể biết thêm về những ngôi đình được dựng trong
thế kỉ XVI. Bia đình Nghiêm Phúc (xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương)
dựng năm Hưng Trị thứ 4 (1591) ghi rằng đình được làm vào niên hiệu Cảnh Lịch
(1548- 1553). Văn bia đình Đại Đoan (xã Đoan Bái, Gia Lương, Ninh Bình) cho biết
đình dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành
(1583)…
Về nguồn gốc
đình làng cũng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có giải đáp chắc chắn. Có
ý kiến cho rằng, đình vốn là hành cung của vua, được xây dựng dành cho vua khi
đi tuần thú, sau mới thành đình làng. Có ý kiến khác cho rằng, vào thời Lý ở
Thăng Long, người ta xây dựng những phương đình (có quy mô nhỏ) để dán các thông
báo của chính quyền, hoặc là nơi người ta tuyên đọc các văn kiện của nhà vua.
Sau đó, kiến trúc loại này tỏa về làng với chức năng như trụ sở hành chính của
làng. Một vài ý kiến khác cho rằng đình làng có thể bắt nguồn từ các kiến trúc
thờ thần đất và thần nước. Các cư dân Việt cổ trong tín ngưỡng bản địa, sùng bái
thần đất và thần nước che chở nuôi sống
họ.
Đáng lưu ý là
ở Tuyên Quang có đình Tân Trào và đình Hồng Thái được xây dựng vào thế kỉ XX,
thành hoàng làng được thờ là thần núi của làng. Theo nguyên lý văn hóa “hóa
thạch vùng biển” thì hai ngôi đình Hồng Thái và Tân Trào gợi cho chúng ta về
ngôi đình sơ khai đầu tiên của người Việt, kiến trúc khung gỗ, lợp lá cọ, bộ mái
lớn, xà thấp, kết cấu nhà sàn và thông thoáng tứ bề. Quy hoạch mặt bằng hình chữ
nhất, vì kèo bốn hàng cột. Tín ngưỡng thờ thần đất và nước biến đổi theo thời
gian, khi tiếp thu văn hóa phương Bắc thì thần đất, nước được khoác bộ áo của
thần thành hoàng Trung Quốc, từ đó biến thành hoàng làng Việt
Nam.
Do vậy, đình
làng với tín ngưỡng của nó có thể có nguồn gốc từ việc thờ thần đất, nước, hai
vị thần quan trọng nhất của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trong tiến trình lịch
sử tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, thờ mẫu, thờ sức mạnh tự
nhiên, và có phần ảnh hưởng không lớn lắm của đạo Phật, đạo Nho đã được bổ sung
tạo ra những biến thể phong phú của Thành Hoàng làng Việt
Nam.
* Chức
năng:
Đình làng là
một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng tổng hợp, có ba chức năng: Tín ngưỡng, hành
chính, văn hóa. Rất khó để xác định chức năng nào có trước, chức năng nào được
bổ sung. Hơn nữa, ba chức năng đan xen, hòa quện với nhau đến mức khó có thể
phân biệt.
1. Chức năng
tín
ngưỡng:
Trong các
đình làng Việt Nam, vị thần được thờ cúng là Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần,
thần hộ mệnh của làng. Khi tín ngưỡng Thành Hoàng du nhập vào Việt Nam từ thời
Bắc thuộc cũng nảy sinh ra một số Thành Hoàng mà chức năng cũng giống như ở
Trung Quốc…Các vua triều Nguyễn còn lập miếu thờ Thành Hoàng làng ở tỉnh và
huyện. Nhưng khi tín ngưỡng Thành Hoàng về làng, xã thì nó đã biến đổi khác với
tín ngưỡng Thành Hoàng ở Trung Quốc. Như vây, tín nguỡng Thành Hoàng Trung Quốc
khi du nhập vào làng xã Việt Nam thì các yếu tố văn hóa Hán, hoặc hiện tượng Hán
hóa khác bị cổng làng chặn lại thì nó lại tìm thấy các tín ngưỡng bản địa có
tính tương đồng, nên hội nhập rất thuận lợi với hệ thống tín ngưỡng đa nguyên
của Việt
Nam.
Nguồn gốc của
Thành Hoàng cũng rất phức tạp. Trước hết là các thần tự nhiên (thiên thần hay
nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị thần này đều được khoác áo
nhân thần với các tiểu sử thế tục. Được thờ chủ yếu là Sơn Tinh (thần núi), Thủy
Tinh (thần sông, thần biển), trong đó, Tản Viên Sơn thánh có địa vị cao hơn cả.
Ngoài ra, các vị thần núi có tên như Cao Các, Quý Minh được thờ ở nhiều nơi. Các
thần núi ở địa phương, như: Tam Điệp Sơn, Điệp Sơn cũng được tôn làm Thành Hoàng
làng.
Thành Hoàng
làng thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử, như: Lí Bôn, Ngô Quyền,
Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo… Chiếm số đông trong các nhân thần là những người
ít nổi tiếng hơn như: Quan lại, nho sĩ và đặc biệt là các tướng của Hai Bà
Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra là các nhân vật truyền
thuyết, Thành Hoàng làng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa, như tục thờ
cây, thờ đá thời nguyên
thủy...
Ngoài các vị
thần, ở đình làng còn thờ những người có công khai phá đất mới, lập làng, như:
Hai hoàng tử thời Lý là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương, Nguyễn Hữu Cảnh,
Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Cư Trinh … Ở miền Bắc thường gặp ở các vùng ven biển dân
làng thờ những người có công khai hoang lấn biển. Những người gọi là “tiên hiền”
là những người đến trước, “hậu hiền” là những người đến sau tiếp tục công cuộc
“khai canh, khai khẩn”. Thành Hoàng có thể là người xuất thân hèn kém, có người
chết vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Trong lễ hội, người ta thường cử
hành “hèm” để nhắc lại thần tích của các vị Thành Hoàng làng
này.
Những người
có công đóng góp cho làng sau khi chết được dân làng thờ làm “hậu thần”, hàng
năm cúng giỗ ở đình. Có người khi còn sống đóng góp cho làng trên cơ sở có khoán
ước với làng, được ghi thành văn bản, đôi khi được khắc vào bia đá. Họ được “bầu
hậu” khi chết đi được thờ làm “hậu thần” và được làng hương khói hàng
năm.
Ngoài ra, ở
một số làng nghề thủ công người ta còn thờ tổ nghề gọi là “tiên sư”. Trong miền
Nam các “tiên sư” được thờ ở nhà hậu của đình làng, chỉ có một số ít “tiên sư”
được thờ ở chánh
điện.
Tóm lại, các
thần làng Việt Nam biểu hiện một hệ thống tín ngưỡng đa nguyên. Đó là một hệ
thống pha lẫn nhiều yếu tố tín ngưỡng sơ khai của cư dân nông nghiệp (tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng thờ mẹ, các thần sức mạnh tự nhiên…) với tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, những người anh hùng và có phần ảnh hưởng không nhiều của của đạo
Phật và đạo
Nho.
2. Chức năng
hành
chính:
Đình làng
thực sự là trụ sở hành chính - nơi mọi công việc về hành chính của làng đều được
tiến hành ở đó. Từ việc xét xử các vụ tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, từ thu tô
thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất phu
đinh.
Chủ thể tiến
hành các hoạt động hành chính ở đình làng là các vị có chức danh Chánh tổng, Lý
trưởng, Phó lý, Trưởng tuần và các viên quan của Hội đồng hương kì, kì mục. Cơ
sở để giải quyết các công việc của làng được dựa vào lệ làng hoặc hương ước.
Hương ước là một hình thức luật tục. Gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu
đời của từng làng mà nhân dân có các bộ luật nhà nước không thể bao quát
được.
Các làng đều
có hương ước riêng với nội dung rất cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, hương ước làng
bao gồm những nội dung chủ yếu
sau:
+ Những qui
ước về ruộng đất: việc phân cấp công điền, công thổ theo định kì và qui ước về
việc đóng góp (tiền và
thóc).
+ Qui ước về
khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy trì đê đập, cấm lạm sát trâu bò, cấm bỏ ruộng
hoang, chặt cây bừa
bãi.
+ Những quy
ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch trong làng. Việc xác định
chức dịch trong làng nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền hành và thế lực để mưu lợi
riêng.
+ Những quy
định về văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng. Đó là những quy ước nhằm đảm bảo các quan
hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng giềng, được duy trì tốt đẹp. Quy định
về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công vào việc sửa chữa, xây dựng đình, chùa,
điện, quy định về thể lệ tổ chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp
cheo…
Hương ước còn
có những quy định về hình phạt đối với ai vi phạm. Vi phạm mức độ nào thì nộp
phạt hoặc phải làm cỗ ở đình làng để tạ tội với Thành Hoàng làng. Hình phạt cao
nhất là bị đuổi ra khỏi
làng.
Có thể nói,
hương ước là một bộ luật của làng xã. Về cơ bản, hương ước chứa đựng nhiều giá
trị văn hóa dân gian tốt đẹp, được hình thành lâu đời và nếu được chắt lọc có
thể phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống làng xã hiện
nay.
Với đặc điểm
của tính tự trị và tính cộng đồng của làng xã, hoạt động hành chính và quản lí
của làng xã được tiến hành có hiệu quả. Đình làng với tư cách là trụ sở hành
chính đã trở thành biểu tượng của tính tự trị và sự cố kết cộng đồng trong suốt
chiều dài lịch sử của
mình.
3. Chức năng
văn hóa:
Đình làng là
trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng. “Cây đa, bến nước, sân đình” đã đi vào
tâm hồn của người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa ở đình làng là lễ
hội. Làng vào hội cũng được gọi là vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấn
tượng nhất trong năm đối với dân làng. Ở các làng quê Việt Nam còn có hội chùa,
hội đền nhưng phần lớn là hội làng được diễn ra ở đình làng gắn với đời sống của
dân làng. Lễ hội bao gồm hai phần chính là: Phần lễ và phần
hội:
+ Lễ là các
hoạt động có tính nghi lễ liên quan đến tín
ngưỡng.
+ Hội là hoạt
động mang tính giải trí, gắn liền với thế tục, nghệ thuật, thể dục, thể thao.
Nhưng trong một số trò chơi hội làng cũng có ý nghĩa tâm linh, gắn với mục đích
cầu mưa, cầu mùa. Lễ hội ở làng diễn ra “xuân thu, nhị kì” vào các dịp nông
nhàn. Lễ hội phần lớn vào tháng Giêng, có nơi vào thành hai, tháng ba âm lịch.
Lễ hội thu thường vào tháng bẩy, tháng tám. Đó là hai lễ hội lớn, còn trong năm
người ta cúng lễ Thành Hoàng
làng.
Lễ cúng Thành
Hoàng làng trong khi mở hội có quy trình như
sau:
- Lễ trộc
dục: Lễ tắm tượng thần hay thần
vị.
- Lễ tế Gia
quan tức là lễ mặc áo, đội mũ cho tượng thần. Nếu chỉ có thần vị thì đặt áo, mũ
lên ngai.
- Rước thân:
Khi mở hội, người ta rước thần từ đền ra đình. Khi kết thúc hội thì lại rước
thần về đền. Ở nhiều làng, người ta thờ Thành Hoàng làng ngay trong đình. Trong
ngày hội, người ta rước thần đi vòng quanh làng và quay về
đình.
- Đại tế: Là
lễ tế quan trọng nhất. Có một người đứng chủ trì lễ (chủ tế), còn gọi là mạnh
bái. Ngoài ra còn có hai hoặc bốn người bồi tế, hai người đồng xướng, hai người
nội tán, mười đến mười hai người chấp
sự.
Sau buổi đại
tế, người ta coi thần luôn có mặt ở đình nên các chức sắc và bô lão phải thay
nhau túc trực. Mở hội gọi là nhập tịch, hết hội gọi là ngày xuất tịch hay còn
gọi là ngày dã
đám.
Sau phần tế
lễ là các hoạt động vui chơi, giải trí. Sân đình trở thành sân khấu diễn xướng,
ca hát. Ở những hội làng Bắc Bộ, sân đình thường có chiếu chèo, vùng Bắc Ninh,
Bắc Giang sân đình gắn với hội hát quan
họ.
Mỗi địa
phương có trò chơi khác nhau, thỏa mãn con người với nhiều nhu cầu như: Nhu cầu
tâm linh (các trò chơi gắn với cầu mưa, cầu mùa, cầu ngư...), nhu cầu cộng cảm,
nhu cầu thể hiện sức mạnh, sự tài trí. Các trò chơi gắn liền với nghi lễ cầu
mưa, cầu mùa, như: Cướp cầu, kéo co, đua
thuyền…
Cho đến nay,
cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu ấn tượng nhất
của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân vẫn tin vào sự phù hộ của
các vị thần trong mùa màng và đời sống. Hội làng ở đồng bằng Bắc Bộ sau một thời
gian bị đứt đoạn đã có sự phục hồi nhanh chóng, chứng tỏ dân làng vẫn có nhu cầu
về tâm linh. Điều đó cũng chứng tỏ sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành
Hoàng
làng.
Tóm lại, đồng
bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam. Những nhân tố tự nhiên và xã
hội đã hình thành nên làng, một cộng đồng làng, lối sống làng. Đình làng là một
thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển
của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự
trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô
đọng nhất là lễ
hội.
(Nguồn: Thắng
Trần)
0 nhận xét: