Van-Hoa-Lich-Su
SỰ THẬT LỊCH SỬ CHỈ CÓ MỘT: PHAN THANH GIẢN LÀ TỘI NHÂN MUÔN ĐỜI
Bài của tác giả Nhị Hà được
đăng trên Tuần
Báo Văn Nghệ TP.HCM số 462, Blog Sân Đình xin trích
nguyên văn, tiêu đề do blog đặt.
Vừa qua, trên
báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam và trên Website Văn Nghệ Sông Cửu Long,
ông Hoàng Lại Giang có bài viết “Trao đổi với đồng nghiệp” xoay quanh nhân vật
Phan Thanh Giản. Bài viết này đã đưa ra nhiều vấn đề nhằm phản bác lại quan điểm
của một số bài trên các báo trước đó để bênh vực Phan Thanh Giản và ủng hộ việc
tỉnh Bến Tre cho dựng tượng đài Phan Thanh Giản. Đọc bài “Trao đổi với đồng
nghiệp”, tôi không đồng tình với nhiều vấn đề mà ông Hoàng Lại Giang đề cập như
cách cảm nhận thơ văn cụ Đồ Chiểu viết về Phan Thanh Giản, việc Phan Thanh Giản
“đòi lại được” tỉnh Vĩnh Long từ tay Pháp, vấn đề “tin ai” – tin Trần Huy Liệu
hay tin cụ Đồ Chiểu, vấn đề đổi mới lịch sử, việc dựng tượng… Tôi cho rằng những
cách biện giải của ông Hoàng Lại Giang vừa chủ quan, thiếu thực tế vừa thiếu
khoa học và xây dựng. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ giới hạn phân tích ba
vấn đề trong số đó nhằm để rộng đường dư luận.
Thứ nhất:
Chúng ta sẽ không trung thực với lịch sử nếu đổ trách nhiệm để mất Nam kỳ vào
tay Pháp cho Nguyễn Tri Phương, vị tướng anh hùng đã “vị quốc vong thân” và là
chủ soái của phe “chủ chiến” trong triều đình Tự Đức bấy
giờ.
Ông Hoàng Lại
Giang dẫn dắt người đọc từ việc Nguyễn Tri Phương đánh thua Pháp trong trận Kỳ
Hòa, rồi “đánh đâu thua đó, thua cho đến khi hy sinh”, “Nguyễn Tri Phương vẫn
luôn chủ chiến, nhưng chiến như thế nào thì trước sau vẫn theo cách … đại bại”
cho đến việc so sánh sứ mệnh đàm phán của Phan Thanh Giản với Pháp ngày đó và
việc đàm phán của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Pháp khi ký Hiệp định Genève năm
1954. Ông viết: “Kinh nghiệm của những cuộc đàm phán với kẻ thù xâm lược phải
nói đến thế và lực của hai bên. Hiệp định Genève là một minh chứng rõ ràng nhất.
Nếu không có chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ thì liệu nhà ngoại giao Phạm
Văn Đồng có ký được Hiệp định Genève không? Trong mọi cuộc đàm phán, quân sự bao
giờ cũng đi trước một bước, đúng hơn là phải áp đảo kẻ thù thì mới hy vọng trên
bàn ngoại giao ta mới có được thế chủ động và có lợi”. Điều này không sai, nhưng
ông Hoàng Lại Giang lại chỉ ra cho người đọc thấy rằng do Nguyễn Tri Phương đánh
đâu thua đó “Một vị tướng tài của triều đình nhà Nguyễn mà như thế thì làm sao
có được một nhà ngoại giao tài để có thể dùng ba tấc lưỡi buộc kẻ xâm lăng trả
lại những đất đai chúng đã chiếm” làm cho Phan Thanh Giản mới không có thế và
lực để bước vào đàm phán nên ta mới… mất
nước.
Ông Hoàng Lại
Giang quên mất một điều cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi và dấu son Hiệp
định Genève có được là do có Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ lãnh đạo, là sự
thống nhất ý chí cao độ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đó còn là kết
quả của cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài 9 năm mà những năm đầu thế và lực của
ta so với Pháp như Bác Hồ từng nói “Nay tuy châu chấu đá voi. Nhưng mai voi sẽ
bị lòi ruột ra”. Còn nước Việt Nam đứng trước sự tồn vong 150 năm trước, lãnh
đạo cao nhất của quốc gia là Tự Đức thì “sáng đòi đánh, tối đòi đánh, đánh miết
thì mệ con ta ở mô?”. Chỉ riêng một câu đó thôi của người nguyên thủ quốc gia
dội xuống đầu phe chủ chiến thì thử hỏi quân sĩ nào còn đủ ý chí chiến đấu! Đó
là chưa kể một loạt những mưu sĩ “chủ hòa” và cả tướng “chủ bại” bao quanh nhà
vua như Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp, Nguyễn Bá Nghi, Trương Quốc Dụng, Trần
Văn
Trung…
Xin trích một
đoạn trong sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” của tác giả Nhật
Yoshiharu Tsuboi (Sách in từ tài liệu luận án tiến sĩ của Yoshiharu Tsuboi) để
bạn đọc thấy rõ hơn về sự “lãnh đạo” của Tự Đức đối với đạo binh của Nguyễn Tri
Phương:
“Năm 1872, để
giải quyết “vấn đề Dupuis”, Phương được cử ra Bắc kỳ với tư cách phải viên cao
cấp của nhà vua, Khâm mạng tuyên sát đổng sức đại thần, có toàn quyền thương
thuyết với
Pháp.
Thái độ của
ông đối với Pháp vẫn luôn luôn không khoan nhượng và Jean Dupuis kể lại một vài
kiểu nói của
ông:
“Nguyên soái
nói nguyên văn: “Ta sẽ tiêu diệt gia đình chúng nó tận gốc”. Ông cũng nói là ông
sẽ ngăn cản thuyền của tôi ngược lên Vân Nam, và nếu chúng tôi không ra đi ngay
lập tức, ông sẽ cho băm vằm chúng tôi ra từng mảnh
nhỏ”.
Cuộc đụng độ
giữa Nguyễn Tri Phương và Jean Dupuis kéo dài dù có sự dàn xếp của giám mục
Puginer. Lúc bấy giờ Tự Đức làm một việc vụng về nghiêm trọng là yêu cầu Thống
đốc Nam kỳ thuộc Pháp giúp đỡ và Thống đốc đã cử Francis Garnier ra Bắc kỳ, với
nhiệm vụ “san bằng” vụ
Dupuis.
Cũng vấp phải sự
không khoan nhượng của Nguyễn Tri Phương, Garnier quyết định chiếm thành Hà Nội.
Ngày 20-11-1873, vào 7 giờ sáng, thành bị chiếm. Phương bị thương nặng vì trúng
mảnh đạn trái phá và con trai ông là Nguyễn Lâm bị giết. Một tháng sau, Phương
từ trần.
… Cái chết của
Phương cũng là một biểu tượng, bởi vì nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết ấy,
một mặt là sự không nhất quán trong chính sách ngoại giao của Tự Đức – khi cầu
viện Thống đốc Nam kỳ thuộc Pháp, triều đình đã đưa nước Pháp đến chỗ can thiệp
ở Bắc kỳ – mặt khác là sự yếu kém trong công cuộc phòng thủ của phía Việt
Nam”.
Yoshiharu
Tsuboi là người Nhật, hẳn ông ta không “bênh ai” khi làm luận án tiến sĩ của
mình. Cái kiểu điều binh đâm sau lưng chiến sĩ của Tự Đức như vậy mà Nguyễn Tri
Phương không thua mới
lạ.
Khi quy tội
“Nếu trung thực với lịch sử thì phải nói rằng người đã để mất thành Kỳ Hòa và
sau đó là 3 tỉnh miền Đông và một tỉnh miền Tây – Vĩnh Long là Nguyễn Tri
Phương”, ông Hoàng Lại Giang cũng quên mất là sau khi Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ
tháng 2 năm 1861, Nguyễn Tri Phương bị điều ngược ra Huế, mặt trận Nam kỳ được
Tự Đức giao lại cho Nguyễn Bá Nghi. Nguyễn Bá Nghi tuy là tướng đánh trận nhưng
vừa vào đến chiến trường, chưa đánh đã vội tâu về triều: “Trừ một chước hòa, tôi
chỉ còn biết chịu tội”. Sau đó khi nghe tin Pháp sắp đánh Biên Hòa, Tự Đức lại
sai Nguyễn Tri Phương đem quân xuống phía Nam cứu viện. Binh tướng Nguyễn Tri
Phương chưa vào đến Bình Thuận thì Pháp đã chiếm được Biên Hòa ngày 14 tháng 12
năm 1861. Kế tiếp, quân cứu viện chưa vào được Nam kỳ thì Pháp đã công phá thành
Vĩnh Long ngày 20 tháng 2 năm 1862. Trong khi đó, Khâm sai Nguyễn Bá Nghi bỏ ngỏ
thành Biên Hòa, đem đại quân rút chạy ngược ra Bình
Thuận.
Trong hơn
mười năm đau thương của đất nước, Nguyễn Tri Phương đã hai lần hành quân ra cứu
nguy Hà Nội, hai lần điều binh vào Nam kỳ đánh nhau với Pháp, hai lần bị Tự Đức
rút khẩn cấp về dẹp loạn ở Huế và gần một năm trời tổ chức tử thủ ở mặt trận Đà
Nẵng khiến Pháp sa lầy phải lui binh. Một vị tướng cầm quân vào Nam ra Bắc không
biết mệt mỏi rồi hy sinh anh dũng vì sự tồn vong của dân tộc lại bị ông Hoàng
Lại Giang quy cho cái tội làm mất một phần đất nước! Một vị tướng mà ngay cả kẻ
thù của ông lúc bấy giờ cũng phải ca ngợi là: Một con người xuất sắc về nhiều
mặt, là người yêu nước nồng nàn, là chiến sĩ dũng cảm” (Lời Étienne Louvet). Còn
qua ngòi bút của Hoàng Lại Giang, tôi có cảm tưởng vị tướng không đội trời chung
với quân cướp nước chỉ biết hùng hục đánh, đánh kiểu nào cũng đại bại không khác
gì hữu dõng vô mưu. Sao mà tội nghiệp cho Nguyễn Tri Phương quá. Nhằm để “nâng”
Phan Thanh Giản mà lại đi “hạ” Nguyễn Tri Phương, quả là rất không
nên.
Thứ hai: Phải
chăng ông Hoàng Lại Giang muốn bạn đọc hiểu là câu “Phan Lâm mãi quốc, triều
đình khí dân” không nên là của nhân dân Nam kỳ trong cuộc kháng chiến của Trương
Định mà xuất phát từ phong trào Văn thân Nghệ Tĩnh sau đó được gán cho nhân dân
Nam
kỳ.
Ông Hoàng Lại
Giang viết: “Trong cuộc tọa đàm về Phan Thanh Giản năm 1996 ở 43 Nguyễn Thông,
nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư có nói hai câu này xuất phát từ quê ông ở Hà Tĩnh
do Trần Tấn và Đặng Như Mai tung lên để kéo quân vào kinh thành lật đổ triều
đình nhà Nguyễn”. Ông viết tiếp: “Còn dân Nam kỳ vẫn tôn trọng triều đình. Với
lại khẩu khí này không phải là khẩu khí của dân Nam kỳ. Tôi thấy nhiều người
nghiêng về ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình
Tư”.
Trước hết,
dựa vào đâu mà ông Hoàng Lại Giang (hoặc ông Nguyễn Đình Tư) cho rằng: “dân Nam
kỳ vẫn tôn trọng triều đình. Với lại khẩu khí này không phải là khẩu khí của dân
Nam kỳ”?. Hay các ông là người Nam kỳ chăng? Trong “Tuyên ngôn Quản Định” (Tạp
chí Sử Địa – trang 44) khẩu khí của dân Nam kỳ, của Trương Công Định là như thế
này đây: “Chúng tôi sẽ chống lệnh triều đình” nếu vẫn “duy trì sự đã rồi bằng
cách nhường một phần đất nước và giúp đỡ quân giặc”, “nhân dân ba tỉnh tha thiết
muốn khôi phục địa vị cũ bèn tôn chúng tôi lên làm lãnh tụ. Vậy nên chúng tôi
sẵn sàng chiến đấu và ở miền Đông cũng như miền Tây, chúng tôi sẽ đề kháng,
chúng tôi sẽ xông pha”, vì “dân chúng đã nói “Chúng ta thà chết chứ không làm
tôi tớ cho giặc””. Khẩu khí của dân Nam kỳ trả lời triều đình là hàng chục ngàn
nấm mồ nghĩa binh đã đi theo Quản Định, Thiên hộ Dương, Thủ khoa Huân, Đốc binh
Kiều, Nguyễn Trung Trực, Quản cơ Thành. Lớp trước ngã xuống lớp sau lại nón chóp
tầm vông xông lên. Họ đâu có nghe theo triều đình khi được Phan Thanh Giản kêu
gọi “hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì khỏi chống lại”. Khẩu khí ấy còn là
“Thà cho trước mắt mù mù/ Chẳng thà nhìn thấy kẻ thù quân thân”, “Thà đui mà giữ
đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ” (Đồ
Chiểu).
Trở lại với câu
“Phan Lâm mại quốc, triều đình khí dân”, xin cứ hỏi bất kỳ một vị học giả cao
niên nào chánh gốc Nam kỳ cũng sẽ nhận được câu trả lời là họ nghe được từ thời
nào. Giáo sư Trần Văn Giàu, cụ Ca Văn Thỉnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Oanh –
tác giả cuốn Chân dung Phan Thanh Giản xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn và rất
nhiều vị đã qua tuổi hoa niên thời tiền cách mạng không lẽ họ đã nhầm lẫn khi
viết sách. Cứ cái kiểu “nói vống không sợ đánh thuế” thì rồi sẽ có người khác
bảo những câu như “Bệ hạ muốn hàng thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”, hoặc
“Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” cũng là do sau này
người ta đặt ra để làm tăng sĩ khí và lòng tự tôn dân tộc nhằm chiến thắng quân
xâm lược! Chính nhà vua Tự Đức đã xác nhận dư luận của quần chúng nhân dân Nam
kỳ lúc bấy giờ trong một bài thơ của mình. “Khí dân triều trữ cửu. Mại quốc thế
gian bình”. Giấy trắng mực đen còn đó.
Thứ ba: Ông
Hoàng Lại Giang cho rằng Phan Thanh Giản yêu nước. Mở đầu đoạn văn này, ông
Hoàng Lại Giang dựa vào uy tín của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt “Một lần cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt nói với tôi rằng…” (Xin lưu ý cụm từ “nói với tôi” chứ không
phải được trích dẫn từ một bài phát biểu nào của Thủ tướng Võ Văn Kiệt) để khẳng
định là “Phan Thanh Giản yêu nước theo cách của Phan Thanh Giản”. Lập luận này
tôi rất không đồng tình.
Là mưu sĩ,
nhà ngoại giao số một của triều đình đồng thời cũng là chủ soái của phe “chủ
hòa”, chân dung Phan Thanh Giản đã được chính Tự Đức hai lần vẽ nên. Lần thứ
nhất khi Phan Thanh Giản thay mặt nhà vua đi thương lượng với giặc nhưng lại tự
ý cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp bằng hòa ước Nhâm Tuất 1862, Tự Đức trách phạt:
“Hai ngươi (chỉ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp) không những chỉ là tội nhân của
triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”. Lần thứ hai Tự Đức kỳ vọng
giao trách nhiệm vào trấn giữ 3 tỉnh miền Tây nhưng Phan Thanh Giản lại sốt sắng
dâng nộp nốt 3 tỉnh này cho Pháp khiến Tự Đức nổi giận xuống chỉ: “Đến như Phan
Thanh Giản thì thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc làm, đem
học vấn danh vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thực là táng tận lương tâm, quá
đỗi phụ ơn. Mặc dù lấy cái chết để tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù cho trách
nhiệm”. Chân dung Phan Thanh Giản tưởng không gì rõ hơn
thế.
Trong bức
“Công thơ” của Phan Thanh Giản gửi Tổng đốc An Giang và Hà Tiên ngày 20 tháng 6
năm 1867 sau khi mở ngỏ cửa thành Vĩnh Long rước Pháp vào, ta sẽ thấy “cách yêu
nước” của Phan Thanh Giản: “Người Phú-lang-sa có chiến thuyền to, chở đầy quân
và đại bác. Không người nào có thể chống lại. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu
cũng đặng, những đồn lũy chắc chắn cũng phải bể… Vậy bản chức viết công thơ cho
các quan văn cũng như cho các tướng võ hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì
khỏi chống lại… Hỡi các quan và lê dân, các người có thể sống dưới sự điều khiển
của người Phú-lang-sa, những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà
thôi”. Người Việt Nam vốn có truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, vậy
những lời lẽ trên của Phan Thanh Giản thì phải giải thích làm sao? Có phải vì
quá khiếp sợ mà đầu hàng giặc hay là chỉ vì thương và tránh cho “con dân” khỏi
nạn binh đao? Cứ cho là Phan Thanh Giản thương dân nên đầu hàng, giao đất giao
thành cho giặc nhưng nếu tiền nhân nước Việt ai cũng thương dân kiểu đó thì liệu
còn nước Nam này cho dân tộc ta không? Còn nước để mà yêu không? Việc Phan Thanh
Giản gởi mật thư cho Bonard, cho Tự Đức đề nghị tiêu diệt Trương Định, Võ Duy
Dương, bắt giữ người liên lạc của Trương Định rồi gởi thư thông báo cho Pháp là
yêu nước
sao?
Khi Quản cơ
Thành, tức Trịnh Quang Nghị bắt giết những người theo Pháp (sau này Quản cơ
Thành cũng rời bỏ triều đình, mộ quân khởi binh chống Pháp ở An Giang, Trịnh
Quang Nghị mà còn phán: “Nghị chỉ vì yêu nước mà hoạt động. Giết Nghị tức là tự
mình ly gián với nhân dân”. Một ông vua ươn hèn, khiếp nhược như Tự Đức còn có
lúc biết thế nào là yêu nước, thế nào là lòng dân. Còn Phan Thanh Giản thì lại
sốt sắng, quyết liệt bảo vệ quyền lợi xâm lược của Pháp một cách triệt để, coi
những nghĩa sĩ chống Pháp như kẻ thù của mình. Đây là một đoạn trong thư Phan
Thanh Giản gởi Lagrandière để chia buồn về cái chết của Trung tướng Hải quân
Bonard – là người đã cùng ký Hiệp ước Nhâm Tuất với Phan Thanh Giản: “Hồi ấy,
Đại Phú-lang-sa đã lưỡng lự về vấn đề lấy xứ Nam kỳ làm thực dân địa. Khi một
lần đối thoại giữa ông ấy và tôi để định ngày cho cuộc thương nghị và vấn đề một
khi đã giải quyết xong, những tư tưởng và nguyện vọng của chúng tôi hóa thành
một”. Còn gì để nói nữa khi chính Phan Thanh Giản là người chủ động thúc dục
Bonard chiếm Nam kỳ làm thuộc địa trong khi viên tướng này còn lưỡng lự chưa
quyết. Và như vậy, nói Phan Thanh Giản “yêu nước Pháp” theo cách của Phan Thanh
Giản có lẽ thuyết phục hơn.

Quân Pháp tấn
công Gia Định (tranh tư liệu)
Những hoài
nghi, những đoan quyết về một Phan Thanh Giản yêu nước thực ra đều khởi nguyên
từ một chén thuốc độc mà ông đã tự xử. Vị tiến sĩ văn tài như thế, thanh liêm
như thế, cúc cung tận tụy 3 triều vua mà cuối cùng phải dành cho mình chén thuốc
độc. Nhiều người xót xa thương cảm. Tôi cũng xót xa thương cảm. Nhưng cái chết
của Phan Thanh Giản là tử tiết thì tuyệt đối không phải. Tôi đã có bài viết phân
tích về cái chết của Phan Thanh Giản nhưng nhân việc ông Hoàng Lại Giang cho
rằng Phan Thanh Giản yêu nước, thiết nghĩ cũng cần đề cập
lại.
Ngày 20 tháng 6
năm 1867, Phan Thanh Giản giao thành Vĩnh Long cho Pháp, sau đó gởi báo cáo kèm
triều phục và ấn triện theo tàu Mẫn Thỏa hỏa tốc về Huế để nhận phạt. Đến ngày
19 tháng 7 năm 1867, tức là gần trọn một tháng không thấy Tự Đức trả lời, Phan
Thanh Giản mới bắt đầu tuyệt thực. Mười lăm ngày sau nữa tin nhạn vẫn bặt tăm,
Phan Thanh Giản quyết định uống thuốc độc tự vận. Ông vật vã gần ba ngày mới tắt
thở. Đó là ngày 4 tháng 8 năm 1867.
Đã có quá
nhiều bút mực lý giải cái chết của Phan Thanh Giản nhưng Phan Thanh Giản chờ Tự
Đức trả lời trong một tháng rưỡi mới tự tử là có thật. Nếu tử tiết sao ông không
tự sát ngay như Tổng đốc Hoàng Diệu, như Tổng trấn Võ Duy Ninh? Tại sao phải chờ
đợi? Chúng ta lại nhớ, lần tự ý nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, Tự Đức tuy
phán Phan Thanh Giản là tội đồ, mà tội ấy phải xử trảm, nhưng chỉ xử Phan Thanh
Giản tội cách lưu. Tất nhiên là vì Tự Đức vẫn rất cần Phan Thanh Giản trong mối
quan hệ với Pháp. Mặt khác, bội ước với Pháp sẽ lãnh hậu quả đáng sợ hơn. Sự chờ
đợi trong lần nhận tội thứ hai này, không gì khác hơn là Phan Thanh Giản vẫn kỳ
vọng vào ân sủng của thánh chúa. Nhưng lần này Phan Thanh Giản đã đi quá xa, Tự
Đức không những không cứu được Phan Thanh Giản mà còn phải xử ông tội trảm hậu.
Phan Thanh Giản đã chọn chén thuốc độc để chết
trước!
Có một chi
tiết khá lạ lùng được ghi trong thư của Thiếu tá Ansart gởi Thiếu tá Tổng tham
mưu trưởng Reboul về những giây phút hấp hối của Phan Thanh Giản. Thiếu tá
Ansart, linh mục Marc và y sĩ Coniat là 3 người Pháp có mặt thường trực
lúc Phan Thanh Giản lâm chung. Ansart viết: “Chúng tôi
đã phải gần như ép buộc ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới
khiến ông nuốt được một chút giải độc. Nhưng, ngay khi ông được biết là các quan
đã bỏ đi, và chỉ còn mình ông với chúng tôi, thì ông đã thuận mọi điều. Than ôi,
khi đó đã quá muộn! Và điều cho thấy rõ tư tưởng của ông đã theo một chiều tốt
đẹp hơn, là hai lần ông hỏi cha Marc: “Tôi sẽ thoát được chăng?”. Rủi ro thay,
Thiếu tá biết chung cục như thế nào”. Xin được dành sự luận giải đoạn thư trên
cho người
đọc.
Việc triều
đình Tự Đức yếu hèn để mất nước nhanh chóng và việc Phan Thanh Giản chủ động
dâng Nam kỳ cho Pháp làm thuộc địa là những sự thật lịch sử không thể chối cãi.
Nguyên nhân và tác nhân có thể có rất nhiều, nguyên nhân khách quan và chủ quan,
tác nhân trực tiếp và gián tiếp… Chúng ta đều thuộc lớp hậu thế, việc nghiên
cứu phẩm bình công tội của người đi trước phải hết sức cẩn trọng, không thể chủ
quan áp đặt. Lịch sử là khoa học. Khoa học không phải là bất biến nhưng cũng
không hề bay bổng như văn chương. Sự thật lịch sử chỉ có một. Điều khác biệt là
người ta giải mã sự thật lịch sử ấy bằng tâm ý
nào.
0 nhận xét: