Chinh-Tri-Xa-Hoi
SỬ DỤNG VỎ BỌC BIỂN ĐẢO ĐỂ PHỤC DỰNG "THÂY MA VIỆT NAM CỘNG HÒA"
Tổng
hợp@
Sau
vụ “tổng phục dựng” thây ma vừa qua, trong đó có ý kiến rằng Nhà nước Việt Nam
phải phi nghĩa hóa cuộc chiến tranh trước năm 1975 để công nhận tính “hợp pháp”
của cái gọi là “VNCH” thì mới vô hiệu hóa được công hàm Phạm Văn Đồng và công
nhận “quyền sở hữu hợp pháp” của “VNCH” ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Trước hết phải
nói đây là một ý kiến ngớ ngẩn, vô duyên, ngu xuẩn và dốt nát hiếm thấy ở một
người làm báo. Nó như là một báo động đỏ về những gì đang xảy ra trong nội bộ
báo Thanh Niên và những khuất tất, kém nghiệp vụ và tri thức, thậm chí cả đạo
đức nghề báo.
Thứ nhất: Làm
sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ VN hiện tại có thể công nhận hay không công nhận,
thừa nhận hay không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền Sài
Gòn?
Muốn biết nó hợp
pháp hay không thì phải căn cứ vào luật pháp Việt Nam trong giai đoạn chính
quyền Sài Gòn tồn tại (1949-1955-1975). Tức là căn cứ vào luật pháp Việt Nam từ
năm 1946 khi nước Việt Nam có Quốc hội và Hiến pháp đầu tiên, trong lúc trên
lãnh thổ Việt Nam không tồn tại một quốc gia, nhà nước, quốc hội, hiến pháp,
luật pháp nào
khác!
Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946 đã khẳng
định chủ quyền một cách xuyên suốt toàn bộ nước Việt Nam theo các hiến pháp Việt
Nam đến nay, bắt đầu từ hiến pháp 1946 được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam khóa
I. Năm 1959, cái gọi là “VNCH” gián tiếp bị đưa vào diện phản bội Tổ quốc vào
trong Hiến pháp qua chương I điều VII: “Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi
hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp
thống nhất Tổ quốc.” Các hiến pháp sau năm 1975 cũng nói về hai cuộc kháng chiến
với ý nghĩa là những cuộc kháng chiến chống xâm
lược!
Do đó, nếu bảo
“VNCH” là hợp pháp thì phải cạo sửa lịch sử, cạo sửa lại các hiến pháp đó và nói
về hai cuộc kháng chiến với ý nghĩa là những cuộc chiến tranh xâm lược! Đồng
thời phải làm một cuộc “đốt sách chôn nho” hoặc cách mạng văn hóa, đốt hủy sạch
sẽ những văn kiện chính trị, văn kiện pháp lý của Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ Việt Nam trong thời gian đó, chẳng những ở Việt Nam, mà còn cả thế
giới.

Bởi vì không chỉ
có luật pháp, hiến pháp trong nước, mà các văn kiện chính trị, văn kiện ngoại
giao, các bức thơ ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho các nguyên thủ
quốc gia trên thế giới đều thể hiện rằng các chính quyền Bảo Đại, Diệm, Thiệu là
các ngụy quyền bù nhìn tay sai của giặc xâm lược Pháp – Mỹ, và sau này Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của miền
Nam Việt
Nam.
Trên thực tế,
trong thời gian tồn tại của ngụy quyền 1949-1975, không có luật nào của Việt Nam
công nhận họ. Luật pháp Việt Nam, hiệp định Genève 1954, hiệp định Paris 1973
đều không có cái nào công nhận
họ.
Xin lưu ý hiệp
định Genève 1954 và Paris 1973 không hề công nhận “Quốc gia Việt Nam” và “Việt
Nam Cộng hòa” là các quốc gia, nhà nước. Thậm chí hiệp định Genève còn không
công nhận “Quốc gia Việt Nam” là một thành phần chính trị, mà chỉ quy định nước
Việt Nam tạm thời bị chia làm hai vùng tập trung quân sự và hai vùng kiểm soát,
quản lý trong thời hạn 2 năm! Quân đội Liên hiệp Pháp (gồm cả ngụy Pháp) tập
trung về phía nam vĩ tuyến 17. Quân đội Việt Nam tập trung về phía bắc vĩ tuyến
17.
Còn hiệp định
Paris chỉ nhượng bộ và công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là một thành phần
chính trị trong cuộc tổng tuyển cử thành lập chính phủ ba thành phần dự kiến sẽ
diễn ra theo điều khoản trong hiệp định
này.
Nhưng Mỹ sau khi
an toàn rút thực binh chiến đấu về nước, họ liền trở mặt, bội ước và phá hoại
hiệp định Paris. Mỹ-ngụy đã không tuân thủ và thực thi đầy đủ các điều khoản
khác trong hiệp định này, trong đó có điều quy định tổ chức tổng tuyển cử thành
lập chính phủ ba thành phần. Do đó, hiệp định này không còn giá trị, không còn
hiệu lực.
Như vậy, “VNCH”
có hợp pháp hay không là phải căn cứ trên luật pháp Việt Nam trong thời gian
“VNCH” tồn tại, chứ làm sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam ngày
nay có thể làm gì được trước sự thật lịch sử rành rành? Nếu Nhà nước, Quốc hội
VN ngày nay có thể công nhận với không công nhận tính hợp pháp của “VNCH” thì
hóa ra luật pháp VN là luật rừng
sao?
Thứ hai: Chẳng
những ý kiến “công nhận tính hợp pháp” nói trên là một ý kiến điên rồ, hoang
tưởng, phi thực tế, bất khả thi, thuộc diện thần kinh chính trị, mà nó còn gây
hại đến chủ quyền của nước CHXHCN Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Một là vì trong
thời gian “VNCH” chiếm đóng, kiểm soát, quản lý hai quần đảo này, Trung Quốc,
Đài Loan và Philippines đã “gặm nhấm” một phần rất lớn, và nhiều lần “VNCH”
không hề lên tiếng phản đối trong khi những nơi đó đang trong vùng kiểm soát của
họ.
Hai là vì bản
thân “VNCH” ngày nay đã không còn tồn tại. Nếu bảo “VNCH” là người “sở hữu”
Hoàng Sa, thì ngày nay Trung Quốc phải trả Hoàng Sa lại cho
ai?
Khi cố gắng lừa
dối bản thân rằng “VNCH” là một quốc gia, thì làm cách nào chuyển giao “chủ
quyền” (danh nghĩa) của chính quyền Sài Gòn về tay CHXHCN Việt Nam, làm cho nó
trở thành chủ quyền của CHXHCNVN? Rất khó! Bởi vì kiểu nào cũng nói không xuôi:
Nếu lập luận rằng chính quyền Sài Gòn đã bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, trong đó có chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, vì vậy Trung Quốc
phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam, thì cũng không ổn. Bởi
lẽ:
– Thực tế không
hề có một cuộc bàn giao chính quyền hay bàn giao quyền lực nào cả. Như đại
úy Phạm Xuân Thệ đã tuyên bố tại dinh tổng thống ngụy
quyền: “Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện. Các ông không còn gì để bàn
giao”.
– Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước không kết thúc bằng một cuộc đầu hàng thật sự và sau đó
bàn giao chính quyền, mà kết thúc bằng một chiến dịch quân sự và giành lại chính
quyền, theo cách nói khi đó là “cướp chính quyền”, dĩ nhiên cướp ở đây là cướp
lại chính quyền từ tay
Mỹ.
Ngụy quyền chỉ
đầu hàng trong sự thoi thóp sau khi ngụy quân đã tháo chạy và sắp tan rã, và họ
không còn năng lực chống trả. Sự làm chủ hoàn toàn miền Nam của VNDCCH và CHMNVN
là thành quả của một chiến dịch quân sự, một biện pháp vũ lực, sử dụng quân đội
và các lực lượng vũ trang và giành chiến thắng, chứ không phải là từ một sự đầu
hàng tự nguyện và sát nhập hòa bình. Khi đó ở Sài Gòn có rất nhiều phóng viên
chiến trường quốc tế và ai cũng thấy được chuyện gì đã diễn
ra.
– Đặt giả thuyết
có thể miễn cưỡng coi như là “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng thì có thể tạm
coi là “bàn giao chính quyền”, thì nó vẫn chỉ có giá trị ở những vùng mà ngụy
quân phụ trách kiểm soát và ngụy quyền phụ trách quản lý thay cho Mỹ. Hoàng Sa
lúc đó ở ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Dương Văn Minh, mà lúc đó đang do
Trung Quốc chiếm đóng, kiểm soát, quản
lý.
Bà Monique
Chemillier-Gendreau, giáo sư ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học
Paris VII – Denis Diderot của Pháp, trong một tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và
pháp lý quốc tế, đã ghi nhận: “Người ta không thể chuyển nhượng những gì người
ta không kiểm soát, quản lý.” Năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn không kiểm soát, quản
lý Hoàng Sa. Do đó họ không thể chuyển nhượng hay bàn giao chủ quyền đối với
Hoàng Sa lại cho Cộng hòa miền Nam Việt
Nam.
OOo
Nếu giải quyết
theo cách thừa nhận rằng Hoàng Sa là chủ quyền lãnh thổ thuộc sở hữu của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đang bị Mỹ-ngụy xâm lược
chiếm đóng, thì dù vẫn khó khăn, nhưng ít ra còn có đối tượng rõ ràng cho Trung
Quốc trả lại Hoàng Sa: CHXHCN Việt Nam, thừa kế của VNDCCH và
CHMNVN.
Tuy nhiên, giả
sử nếu có tranh tụng tại tòa án quốc tế, thì đương nhiên tòa sẽ áp dụng luật
quốc tế, chứ làm sao có thể dùng luật pháp của một phía Việt Nam? Luật pháp quốc
tế sẽ xem cả 3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và “VNCH”
với tư cách là 3 quốc gia với các chính phủ, quân đội, quốc kỳ, quốc ca, đồng
bạc, và vùng kiểm soát, quản lý khác nhau, và đều có sự công nhận và quan hệ
ngoại giao với nhiều nước trên thế
giới.
“VNCH” nhờ được
Mỹ dùng sức mạnh ngoại giao và quyền lực mềm của họ an bài, nên cũng được nhiều
nước trên thế giới “quan hệ ngoại giao” xuất phát từ sự áp đặt của Mỹ. Nếu có
tranh tụng, thì sẽ áp dụng luật pháp quốc tế, trong khi đó một số chính phủ quốc
tế đã công nhận và gọi “VNCH” là một “quốc gia” rồi, thì tại sao Nhà nước VN cần
phải công nhận
nữa?
Nếu ngụy quyền
Sài Gòn quả thật đúng là có chính nghĩa, chính danh, chính thống, hợp pháp, thì
cần gì Nhà nước VN phải công nhận hay không? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng
hòa miền Nam Việt Nam có cần “VNCH” công nhận mình đâu? Thậm chí, họ chỉ quan
tâm tới việc chống Mỹ, nói chuyện với Mỹ, chứ quan tâm gì tới “VNCH”? Suốt thời
gian hội nghị Paris về Việt Nam, có người nào bên phía VNDCCH và CHMNVN nói 1
câu nào với đại biểu “VNCH”
đâu?
Điểm sai lầm
then chốt nghiêm trọng là thật ra chưa bao giờ tồn tại khái niệm “2 nước Việt
Nam”, “2 nhà nước VN” hay “2 quốc gia VN”. Đó là một khái niệm hoang tưởng, phản
khoa học, bởi vì làm sao có thể tồn tại cái khái niệm “2 nước Việt
Nam”?
Đó là sự ngộ
nhận then chốt nghiêm trọng của một số người đang nghiên cứu về vấn đề pháp lý
quốc tế liên quan đến luật biển và tranh chấp chủ quyền. Sở dĩ họ nhầm lẫn như
nói trên là vì họ ngộ nhận các danh từ “North Vietnam”, “South Vietnam” mà các
chính phủ nước ngoài gọi hai miền Việt Nam với ý nghĩa là hai đất nước, quốc gia
khác nhau và “độc lập” với nhau. Nhưng các “nhà nghiên cứu” nghiệp dư này lại
lầm tưởng các danh từ này được các chính phủ nước ngoài gọi với ý nghĩa là gọi 2
miền của 1 nước Việt Nam, hay là 2 nước Việt Nam. Các “nhà nghiên cứu” này thấy
có chữ “Vietnam” trong đó nên đã lầm tưởng như vậy, vô tình gây ngộ nhận cho độc
giả.
Xin lưu ý là các
chính phủ nước ngoài gọi “Bắc Việt Nam” (North Vietnam), “Nam Việt Nam” (South
Vietnam) như một danh từ, một tên nước không chính thức, và có ý nghĩa chính
trị. Một số báo chí và cả đài truyền hình trong nước khi chuyển ngữ đã nhầm lẫn
với từ “miền Bắc Việt Nam” (northern Vietnam), “miền Nam Việt Nam” (southern
Vietnam), và có ý nghĩa vùng miền địa
lý.
Thời Pháp, các
chính phủ nước ngoài nói rằng tại Việt Nam có 2 nhà nước, Nam Kỳ là của nhà nước
Đại Pháp, và nhà nước Đại Nam ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Pháp “bảo hộ”. Họ nói rằng
Việt Nam có 3 chế độ cai trị Bắc – Trung – Nam khác nhau. Nhưng đối với quan
điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị
thực dân Pháp cai
trị.
Thời Mỹ, các
chính phủ nước ngoài nói rằng ở Việt Nam có 2 quốc gia khác nhau: Bắc Việt Nam
và Nam Việt Nam. Nhưng đối với quan điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt
Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị giặc Mỹ xâm lược, và nửa bờ cõi Việt Nam bị đế
quốc Mỹ thống
trị.
Tại Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 4, tháng 4 năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội
nghị, đã kết luận: “Chúng ta phải nhớ rằng, kẻ thù của nhân dân ta là đế quốc Mỹ
và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta và chúng đang chuẩn
bị chiến tranh vì vậy chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hòa bình,
nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng và cảnh
giác.”
Là công dân Việt
Nam nên nhớ: Trên lãnh thổ Việt Nam thì luật pháp Việt Nam là cao nhất, lớn
nhất! Còn luật pháp quốc tế là một nguồn tham khảo quan trọng. Luật pháp quốc tế
không đứng trên luật pháp và đạo lý Việt
Nam.
Trong một số
tranh chấp chủ quyền, các bên có thể sẽ phải căn cứ trên luật pháp quốc tế để
tranh tụng tại tòa, nhưng điều đó không có nghĩa ông dựa vào đó rồi ông tự cho
mình cái quyền đi lợi dụng chức quyền báo chí của mình để tuyên truyền thông
điệp hạ thấp luật pháp và đạo lý Việt Nam, đặt quan điểm luật pháp và góc nhìn
của nước ngoài lên trên nước nhà, đầu độc thế hệ
trẻ.
Tại sao phải vô
hiệu hóa công hàm Phạm Văn
Đồng?
Công hàm Phạm
Văn Đồng là một công hàm có nội dung cho biết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ tôn
trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc đúng theo thông lệ quốc tế, và thực tế sau
này con số 12 hải lý đó đã được quy định trong pháp lý quốc tế, luật biển Liên
Hiệp Quốc.

Công hàm của cố
thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi ông Chu Ân Lai năm 1958.
Công hàm đó không phải là một công hàm chuyển giao Hoàng Sa cho Trung Quốc, vì
nội dung công hàm không có ý nghĩa như thế. Nội dung công hàm không có một chữ
nào nói về vấn đề chuyển nhượng chủ quyền hay vấn đề Hoàng
Sa.
Văn bản hành
chính là xác lập là cụ thể với từng ngữ nghĩa được nêu , tuyệt đối không được
suy diễn nội dung trong văn bản hành chính dù chỉ suy diễn bậc nhất...huống hồ
còn suy diễn lòng
vòng.
Chủ quyền lãnh
thổ là việc của Quốc hội, không phải việc của Thủ tướng. Thủ tướng không phải là
người quyết định chủ quyền. Do đó, bức thơ này của thủ tướng Phạm Văn Đồng không
có ý nghĩa về chủ quyền, lãnh thổ Việt
Nam.
Đó là các vấn đề
chính, nội dung chính trong bản công hàm. Còn tất cả những cái khác đều là Trung
Quốc suy diễn, xuyên tạc, tuyên truyền theo lợi ích vị kỷ của họ. Bọn tàn dư
ngụy là bọn bán nước, nên không có gì lạ khi bọn họ hùa theo trò xuyên tạc của
Trung Quốc, giúp chứng minh Hoàng Sa đã bị bán cho Trung Quốc, có nghĩa là thuộc
chủ quyền của Trung Quốc, giúp Trung Quốc củng cố chủ quyền trái phép. Ngoài
Trung Quốc và bọn bán nước người Việt ra, không một ai trên thế giới này diễn
giải ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng theo kiểu xuyên tạc trắng trợn và lố bịch
đó.
12 hải lý theo
quyền hạn quốc gia căn cứ trên luật biển quốc tế. Nguồn số liệu: United Nations
Convention on the Law of the Sea – Luật biển Liên Hiệp
Quốc
Vậy tại sao cần
phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, tại sao cần phải vô hiệu hóa vấn đề
Việt Nam tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc, điều đó có gì
sai?
“12 hải lý” là
một nội dung cụ thể được định rõ (definite) và không thể suy diễn. Tất cả những
nội dung khác không phải là nội dung cụ thể được định rõ, nên không có tác dụng,
không có giá trị pháp lý, không có hiệu lực pháp lý khi tranh tụng tại tòa án
quốc tế, dù cho các nội dung đó bị Trung Quốc lợi dụng, suy diễn, uốn nắn nội
dung, vặn vẹo chữ nghĩa, vặn vẹo nội dung công
hàm.
Trung Quốc lâu nay
chỉ có các “bằng chứng” về sự thám hiểm và khám phá của họ, chứ không có những
bằng chứng về sự xác lập chủ quyền của họ như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn
triều Minh Mạng của Việt Nam đã làm. Do đó họ bị yếu lý luận và đành phải bám
vào bất cứ “chiếc phao” nào có thể.

Phan
Huy Lê là em trai ông Phan Huy Quát, thủ tướng VNCH “Đã chết trong tù năm 1979,
sau khi bị bắt vì tội phản loạn, cũng như vượt biên. Phan Huy Lê thề trả thù cho
anh, và giờ hắn đã và đang làm đảo điên lịch sử Việt Nam với việc xuyên tạc về
Lê Văn Tám... và nhiều thứ khác.
Bọn chống cộng
cực đoan không biết gì nên phụ họa hùa theo Trung Quốc đã đành, đàng này nhiều
kẻ do non kém chính trị và nghiệp vụ đã phụ họa đi theo một nhóm phản động phá
hoại đất nước tiếm danh “nhân sĩ, trí thức”, đi đầu trong nỗ lực cào bằng “quân
bình hóa” các giá trị lịch sử, “đốt đền thờ”, đánh thức, vực dậy và phục dựng
cái thây ma gọi là
“VNCH”?
Họ làm vậy là do
họ ngộ nhận, không hiểu biết, vô ý thức, vô trách nhiệm, hay họ là một nhóm lợi
ích trong ngành báo, vì lợi ích nhóm nào đó nên muốn tìm kiếm “liên minh” với
đám tàn dư ngụy đầu sỏ phản động lưu vong trên đất
Mỹ?
0 nhận xét: